Psychology · Research

Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism)

Mình đang đọc cuốn sách Kẻ Xa Lạ của Alber Camus, trong đó có đề cập tới chủ nghĩa hiện sinh. Đây là một chủ nghĩa– theo mình thấy khá hay. Mình góp nhặt vài thông tin trên internet để tham khảo và ngẫm nghĩ, tư duy về cuốn sách mình đang đọc ^^.

Nội dung cũng khá dài và khá khó đọc ghê, dù đã cắt xén đi khá nhiều — nhưng nhìn chung vẫn dài lắm 😀


Hiện sinh có trước bản chất

Sở dĩ được gọi là chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh rằng đời sống nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời. Người ta sống, chứ không phải tồn tại, trong mỗi phút giây, và kinh nghiệm về cuộc sống của mỗi người luôn có tính chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với kinh nghiệm của mọi người, và chỉ có thể được hiểu đúng thông qua sự dấn thân của anh ta vào cuộc sống.

Lý trí luôn bất lực khi đề cập đến chiều sâu của đời sống con người

Có hai khía cạnh liên quan đến nhận định này – một là, lý trí của con người thường mềm yếu và bất toàn; hai là, có những khoảng tối trong đời sống con người mang đặc tính “phi lý trí”, và vì thế là nơi lý trí không thể nào thâm nhập.

Tuyên bố mang tính cổ điển về sự tách biệt này xuất hiện nơi tác phẩm Phaedrus, trong đó Plato mô tả tinh thần qua câu chuyện về cỗ xe được kéo bời các con ngựa bạch cảm xúc và những con ngựa ô bất kham tượng trưng cho lòng ham muốn. Người đánh xe chính là Lý trí, kẻ cầm cương chế ngự các con ngựa và vung roi để khuất phục lũ ngựa ô. Chỉ có người đánh xe, một thực thể lý trí, mới có thể dạng con người; phần còn lại của tinh thần, phần phi lý trí, nằm dưới một thể dạng thấp kém hơn, thể dạng súc vật.

Sự tách biệt và đề cao lý trí này được đưa đi xa hơn nữa trong câu chuyện ngụ ngôn về cái hang trong tác phẩm Republic. Hãy nhớ lại bức tranh ảm đạm về đời sống con người mà từ đó câu chuyện được bắt đầu: trong hang tối, người ta bị xích lại, lưng quay về một ngọn lửa bập bùng, không nhìn thấy gì khác ngoài những chiếc bóng đang chuyển động trên vách đá, không thể nghe thấy gì khác ngoài những âm vọng hỗn loạn. Một người, bằng cách phá vỡ gông cùm, tức thì có thể quay lại nhìn sự vật và ánh sáng mà trước đó đã tạo nên những chiếc bóng trên vách hang; thậm chí anh ta còn có thể thoát ra khỏi hang để đi về phía ánh dương tỏ rạng ngoài xa. Thông qua lý trí, anh ta có thể làm được tất cả những điều này; anh ta sẽ thoát khỏi tình trạng nô lệ của sự ngu muội, thoát khỏi thời gian và sự đổi thay, thoát khỏi chính cái chết, để bước vào vương quốc của những ý niệm hằng hữu, tức Chân lý; và thế là cái bản chất thấp kém đã trói buộc anh ta trước đây sẽ mãi mãi bị rơi lại phía sau.

Chủ nghĩa hiện sinh trong thời đại chúng ta, đây là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nó, nhất mực thống nhất phần “thấp kém”, phần phi lý trí của tinh thần, với phần “cao cả”. Nó khẳng định rằng con người phải được thừa nhận trong thực thể trọn vẹn của anh ta, chứ không phải trong một tình trạng phân chia nào đó, đồng thời nó cũng đòi hỏi rằng con người trọn vẹn không chỉ hàm chứa tri thức, mà còn cả những âu lo, tội lỗi và ước vọng quyền lực – những thứ làm biến đổi, và đôi khi, lấn át chính lý trí. Con người được nhìn thấy dưới quan niệm này là một con người, về cơ bản, hết sức mơ hồ, nếu không nói là huyền bí, đầy rẫy những vấn đề mâu thuẫn và căng thẳng tiềm ẩn, những vấn đề không thể giải quyết một cách đơn giản bằng tư duy.

Sự xung khắc

Kết quả quan trọng của sự tách rời lý trí ra khỏi phần còn lại của tinh thần chính là sự phát triển của khoa học, điều đã trở thành một trong những dấu hiệu đặc trưng của nền văn minh phương Tây, và hành động xếp đặt trật tự xã hội càng lúc càng mang tính duy lý của con người. Theo các nhà hiện sinh, các thế lực chính của lịch sử, kể từ thời kỳ Phục hưng, đã không ngừng tách con người ra khỏi cuộc sống trần thế, buộc anh ta phải sống theo những tiêu chuẩn trừu tượng cao cả, tập thể hoá con người cá nhân, đưa Thượng đế ra khỏi thiên đàng và trái tim của con người. Con người hiện đại đang sống trong tình trạng xung khắc: với Thượng đế, với thiên nhiên, với người khác và với chính mình.

Sự xung khắc của con người với thiên nhiên là đề tài chính trong văn chương, ít nhất là kể từ Rousseau và trào lưu lãng mạn, và hầu như không được xem là tài sản của các nhà hiện sinh. Tuy nhiên, các tác giả hiện sinh cứ cho rằng một trong những mối nguy khốn đáng chú ý nhất của con người hiện đại là anh ta đang xây dựng các bức tường kỹ nghệ ngày càng cao và chính điều này đang ngăn chặn anh ta đến với một cuộc sống tràn đầy sinh lực phù hợp với “thiên nhiên.” Việc xử lý đề tài này của họ thường được thể hiện như là lời kêu gọi con người hiện đại cần phải xa lánh cái trừu tượng để quay về với “cái cụ thể” và “sự trọn vẹn”.

Xung đột thứ ba xuất hiện ở mức độ xã hội và biểu hiện của nó là cảm giác tuyệt vọng về tình trạng bất khả tự lực của con người khi đứng trước cỗ máy khổng lồ của xã hội kỹ nghệ. Sự đông đúc nơi đô thị, sự chia nhỏ lao động nhận chìm con người trong chức năng kinh tế của anh ta, sự phát sinh chính quyền trung ương tập quyền, sự phát triển của quảng cáo, tuyên truyền và truyền thông đại chúng trong các hoạt động giải trí và thông tin – tất cả những điều đẩy con người vào “Đám đông cô độc” của Riesman – đã xé nát con người bằng cách huỷ diệt cá tínhkhiến họ phải sống trên bề mặt của cuộc đời, sẵn lòng giao du với “vật” hơn là với người.

“Sự bộc lộ xung khắc ra bên ngoài,” Berdyaev nói, “là gốc rễ của tình trạng nô lệ, trong khi tự do là suy tư về mối xung khắc ấy. Nô lệ luôn luôn biểu thị qua sự xung khắc, tức hành vi tống đẩy bản chất con người ra thế giới bên ngoài.” Trong cuốn tiểu thuyết của Camus, The Stranger (Kẻ xa lạ), một chàng thanh niên bị toà buộc tội sát nhân. Đây là vụ giết người mà anh ta thực sự đã thực hiện trong một tình huống, nếu xét ra, có thể được giảm khinh. Nhưng toà không bao giờ để ý đến bất cứ chứng cứ liên quan đến yếu tố giảm khinh ấy, và dường như cũng không thèm nghe bất cứ điều gì liên quan đến chính tội ác đang xét xử; họ buộc tội chàng thanh niên dựa trên những lý lẽ hoàn toàn phi lý, bởi vì anh đã có những hành xử lạ thường tại tang lễ mẹ anh một ngày trước khi xảy ra vụ sát nhân. Nơi cuốn tiểu thuyết này, người ta cảm thấy một thực tại bị bóp méo một cách huyễn hoặc giống như cảnh phiên toà trong Alice in Wonderland, một cảm giác ngột ngạt vì bị vây bọc bởi các sự kiện chẳng những phi lý, xuẩn động, mà còn không làm cho người ta động tâm. Điều gây phiền não nhất nằm ở sự cô độc của chàng thanh niên, vách tường thù hận bủa vây lấy anh và cản ngăn bất cứ kẻ nào muốn bước vào đời sống anh hoặc muốn chia sẻ sự đồng cảm với nó.

Loại xung khắc thứ tư, xung khắc với chính mình, đặc biệt khi bản chất bị bóp méo bằng sự đề cao lý trí, là một đề tài có thời gian dài đóng vai trò quan trọng trong sự nổi loại của chủ nghĩa lãng mạn. Phần nhiều các hình ảnh con người của thế kỷ mười chín đều được miêu tả dưới dạng người hùng, nhưng sau đệ nhất Thế chiến, người hùng biến mất; con người không còn bị bóp méo hay cắt xén; anh ta trở nên trống rỗng, bất lực và vô danh. Vào thời điểm mà quyền năng chế ngự thiên nhiên của anh ta có vẻ như vô hạn, thì anh ta được khắc hoạ như là một kẻ yếu đuối, luôn bị đè nặng bởi nỗi sợ hãi khôn tả. Và chính điều này đưa chúng ta đến với một đề tài quan trọng khác của chủ nghĩa hiện sinh.

“Run sợ” – Âu lo

Tại Stockhom, khi nhận giải Nobel, William Faulkner đã nói rằng: “Bi kịch của chúng ta ngày nay chính là nỗi sợ hãi mang tính phổ biến và bao trùm liên quan đến thể xác, nỗi sợ hãi mà chúng ta đã phải chịu đựng quá lâu. Không còn vấn đề tâm linh gì nữa cả. Câu hỏi duy nhất còn lại là: Khi nào tôi bị nổ tung đây?” Hình ảnh lạc quan của thời đại Khai sáng, một thời đại nhìn thấy con người, thông qua lý trí và khoa học, chế ngự thiên nhiên và giải quyết các vấn nạn chính trị và xã hội theo đường trôn ốc của sự phát triển, đã bị vỡ tan sau Đệ nhất Thế chiến, giống như quả dưa va vào phiến đá. Những học thuyết ôm giữ nhiều cao vọng như thế đã gục ngã trong cuộc giết chóc kinh hoàng và khó hình dung ấy. Đây chính là yếu tố cụ thể trong bản chất con người và xã hội mà các học thuyết đó không dung nạp được. Giai đoạn Đại Khủng hoảng kinh tế những năm 1929 – 1930 và cuộc Đệ nhị Thế chiến đã khoét sâu thêm tình trạng mất tinh thần do sự cáo chung của các lý tưởng cũ gây ra; tuy nhiên, chỉ bằng một quả bom nguyên tử, điều này đã biến thành nỗi kinh hãi bất kham, một mối đe doạ huỷ diệt nhân loại tức thời mà con người phải đối mặt với, ngay cả đối với những ai được bảo vệ nghiêm ngặt nhất bởi bức tường dày hàng hoá và dịch vụ. Giờ đây, kẻ thiếu suy nghĩ nhất cũng có thể cảm nhận được rằng mỗi bước tiến trong kỹ nghệ cơ khí không chỉ mang đến những triển vọng nhung lụa, mà còn cả mối đe doạ tiềm tàng.

Chạm trán với Hư vô

Đối với người xung khắc với Thượng đế, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình, thì cuối cùng còn lại gì, ngoài Hư vô? Các nhà hiện sinh xác nhận rằng đó chính là nơi mà giờ đây con người hiện đại tìm thấy mình, không phải trên con đường thẳng tắp hướng về một xã hội sáng lạn không tưởng, nhưng tại bờ vực của một vách đá thê lương, mà phía dưới lồ lộ một hố thẳm tuyệt đối, một khoảng Hư vô đen ngòm. Trong một ý nghĩa nào đó, đây chính là Đất Hoang (Wasteland) của Eliot, nơi cư ngụ của Kẻ Vô Hồn (The Hollow Man), một con người:

Chỉ có hình mà không hề có dáng,
Là bóng đen không một chút hương màu
Mọi sinh lực hãm giam trong tù đọng
Bước âm thầm tựa như bóng ma trơi


Đọc chi tiết hơn tại: http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-hien-sinh/doi-net-ve-chu-nghia-hien-sinh_15.html

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s